Năm 1946, tại Hungary, mệnh giá tiền kéo dài tới 29 số 0. Năm 2006, 100 tỷ đôla Zimbabwe chỉ đủ mua ba quả trứng. Tất cả đều là hậu quả của những cuộc siêu lạm phát trong lịch sử loài người.
Các thị trường ngoại hối đã trải qua một đợt khó khăn vào năm 2022, nhưng ở một số quốc gia, sự kết hợp của áp lực địa chính trị và những sai lầm chính sách của ngân hàng trung ương đã đẩy tiền tệ vào “vòng xoáy tử thần”.
Đồng USD đã tăng giá mạnh so với hầu như tất cả mọi đồng tiền trên thế giới trong năm nay, do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) triển khai một chiến dịch thắt chặt chính sách tiền tệ mạnh tay để chống lạm phát. Ngoài ra, giới đầu tư toàn cầu cũng mua mạnh đồng USD trong bối cảnh bất ổn địa chính trị gia tăng và các cú sốc kinh tế vĩ mô vì đồng tiền này vốn được coi là một “hầm trú ẩn”.
Nhìn chung, các nhà sản xuất dầu lớn và các ngân hàng trung ương đã tăng lãi suất một cách dứt khoát đang có xu hướng tốt hơn.
Cũng có một số ít ngoại lệ là những nước sản xuất dầu lửa và những nước có ngân hàng trung ương sớm tăng mạnh lãi suất. Đồng tiền của những nước này trụ vững hơn trước sự leo thang mạnh mẽ của đồng USD. Còn lại, đồng tiền của hầu hết các nền kinh tế từ phát triển cho tới mới nổi và đang phát triển đều trầy trật.
Theo hãng tin CNBC, giáo sư kinh tế học ứng dụng Steve Hanke của Đại học Johns Hopkins, Mỹ, vừa đưa ra danh sách những đồng tiền mất giá mạnh nhất thế giới năm nay. Đồng Cedi của Ghana nằm trong danh sách này.
Đồng Cedi đã đạt mức thấp kỷ lục mới so với đồng đô la vào ngày 9/11 và có thời điểm chạm mốc 14,24 trước khi phục hồi nhẹ trở lại. Theo dữ liệu của Refinitiv, đồng cedi bắt đầu năm nay với mức chỉ hơn 6 cedi mỗi đô la, điều này có nghĩa là đồng bạc xanh đã tăng hơn 132% so với tiền tệ của quốc gia Tây Phi này.
Những vấn đề mà nền kinh tế Ghana đang phải đối mặt bao gồm chi phí sinh hoạt tăng cao và gánh nặng nợ nần không bền vững khiến Chính phủ nước này phải tìm kiếm sự hỗ trợ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Cú sốc mới nhất đối với đồng Cedi xảy ra khi Ngân hàng Trung ương Ghana hủy bỏ một cuộc đấu giá ngoại hối theo lịch trình và các cuộc biểu tình đã được tổ chức tại Thủ đô Accra trong tháng này yêu cầu Tổng thống từ chức.
Nhà giao dịch Murega Mungai của công ty AZA Finance cho biết: “Ngân hàng đã thực hiện một loạt biện pháp để ngăn chặn vòng xoáy kéo dài cả năm của tiền tệ, bao gồm một cuộc kiểm soát bất thành đối với những người bán tiền tệ không có giấy phép. Ngân hàng trung ương cũng đã mua đô la trực tiếp từ các công ty khai thác để tăng dự trữ, khiến thị trường thiếu tính thanh khoản cần thiết. Trong bối cảnh đó, chúng tôi dự báo đồng cedi sẽ tiếp tục chịu áp lực trong thời gian tới, có thể suy yếu ngoài mức 14,50”.
Tuy nhiên, đồng Cedi mới chỉ là đồng mất giá mạnh thứ ba trên thế giới trong năm nay. Vị trí thứ hai thuộc về đồng Peso của Cuba, với mức giảm 56,36% so với USD kể từ đầu năm. Đứng ở vị trí đầu bảng của xếp hạng là Đôla Zimbabwe, đồng tiền đã mất giá 76,74% so với USD kể từ tháng 1. Cả Zimbabwe và Cuba đều đang chứng kiến lạm phát tăng chóng mặt.
Dữ liệu từ cơ quan thống kê Zimbabwe ZimStat cho biết tuần trước rằng “vòng xoáy kinh tế chết chóc của Zimbabwe vẫn tiếp tục quay”. Cơ quan thống kê quốc gia ZimStat đã báo cáo rằng lạm phát của Zimbabwe vào tháng 10 đã tăng 268% so với năm trước, nhưng ước tính của riêng giáo sư Steve Hanke là 417%. Tương tự như Ghana, các nhà chức trách ở Zimbabwe đã nỗ lực hỗ trợ đồng nội tệ và chống lạm phát bằng cách giảm thanh toán bằng đồng đô la Zimbabwe.
Tuần trước, đồng Pound Ai Cập giảm xuống mức thấp kỷ lục mới so với USD, với 24,42 Bảng đổi 1 USD. Bảng Ai Cập cũng nằm trong top 10 đồng tiền mất giá mạnh nhất thế giới mà giáo sư Hanke đưa ra.
Mới đây, tổ chức đánh giá tín nhiệm Fitch Ratings cắt giảm triển vọng tín dụng của Ai Cập xuống mức “tiêu cực” do trạng thái thanh khoản xấu đi và khả năng tiếp cận vốn từ thị trường trái phiếu suy giảm. Dự trữ ngoại hối của Ai Cập đã giảm về dưới mức 32 tỷ USD trong tháng 10, từ mức 35 tỷ USD hồi tháng 3.
Những đồng tiền khác có mặt trong danh sách của giáo sư Hanke còn có đồng Rupee của Sri Lanka, đồng Bolivar của Venezuela, đồng Leone của Sierra Leone, đồng Kyat của Myanmar, đồng Kip Lào và đồng Hryvnia của Ukraine.
(ĐTTCO) - Đây là nhận định của các chuyên gia phân tích Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), tại báo cáo chuyên đề vĩ mô tháng 2.
Theo VDSC, trong tháng 1, tỷ giá USD/VND biến động tăng mạnh nhưng trong biên độ cho phép. Tại ngày 25-1, tiền đồng mất giá 1,4% so với đầu năm và sau đó hạ nhiệt chỉ còn tăng 0,6% so với đầu năm đối với tỷ giá trên thị trường chính thức và 0,1% đối với tỷ giá trên thị trường tự do.
"Nguyên nhân chính khiến tiền đồng mất giá trong tháng đầu năm là do sự phục hồi của đồng USD, xuất phát từ việc nhà đầu tư giảm bớt kỳ vọng về triển vọng cắt giảm lãi suất của Fed. Theo công cụ FedWatch, xác suất cắt giảm lãi suất trong cuộc họp tháng 3 của Fed đã giảm từ mức 70% tại thời điểm đầu năm chỉ còn 34,5% sau thông cáo của Fed trong cuộc họp ngày 31-1.
Trong khi đó, kỳ vọng của thị trường về mức cắt giảm trong năm 2024 vẫn giữ nguyên ở mức 150 điểm cơ bản với xác suất 42,8%. Theo đó, DXY trong tháng 1 phục hồi lên mức 103, cao hơn 1,7% so với đầu năm. Ngoài ra, mức chênh lệch dương của lãi suất USD-VND vẫn neo ở mức cao trong tháng đầu năm (4,85 điểm %), cũng là yếu tố gây áp lực lên diễn biến của tiền đồng", báo cáo cho biết.
Nhóm phân tích của VDSC nhận định, so với các đồng tiền khác, tiền đồng là một trong những đồng tiền giảm giá ít nhất so với đồng USD trong tháng 1. Trong bối cảnh NHTW Trung Quốc tiếp tục thực hiện thêm biện pháp nới lỏng tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, tình hình kinh tế không khả quan trong tháng đầu năm khiến đồng NDT mất giá khoảng 1,1%.
Trong khi đó, đồng Yên Nhật mất giá mạnh nhất (3,8%) khi nhà đầu tư tiếp tục chờ đợi tín hiệu thay đổi chính sách lãi suất âm từ NHTW Nhật Bản. Các đồng tiền khác trong khu vực ASEAN (trừ Việt Nam) đều mất giá từ 1-3% trong tháng 1.
Có thể thấy, đặt trong tương quan về triển vọng kinh tế và chính sách tiền tệ của các NHTW, đồng USD có lợi thế hơn hẳn trong giai đoạn đầu năm 2024.
Theo dự báo đưa ra tại báo cáo này, dù bối cảnh kinh tế năm 2024 là khác biệt, một so sánh về biến động của giá dầu, đồng USD và giá vàng trong giai đoạn Fed nới lỏng (2019-2021) và thắt chặt chính sách tiền tệ (2022-2023) đưa ra một số hàm ý.
Thứ nhất, trong giai đoạn Fed thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, đồng USD biến động tăng giá mạnh trong giai đoạn đầu và duy trì sức mạnh suốt một thời gian sau đó khi lãi suất neo ở mức cao.
Thứ hai, ở thời kỳ Fed cắt giảm lãi suất, các bước cắt giảm đầu tiên không tạo ra nhiều thay đổi với xu hướng của đồng USD, và sự suy giảm của đồng USD chỉ diễn ra sau đó khi chu kỳ cắt giảm lãi suất đi đến hồi kết.
Thứ ba, biến động giá dầu và giá vàng trong thời kỳ nới lỏng và thắt chặt chính sách của Fed khá thú vị. Cụ thể, dầu thô trải qua biến động tăng và giảm mạnh nhưng xu hướng chung là tăng trong thời kỳ Fed nới lỏng và giảm trong thời kỳ Fed thắt chặt chính sách tiền tệ. Trong khi đó, giá vàng tăng giá trong cả hai thời kỳ.
Theo đó, VDSC cho rằng việc nhìn lại lịch sử có thể giúp dự báo một phần biến động tỷ giá trong thời gian tới, việc đồng USD neo cao trong thời kỳ đầu của chu kỳ nới lỏng tiền tệ có thể gây áp lực lên tỷ giá USD/VND. Diễn biến này có thể kéo dài ít nhất trong nửa đầu năm 2024.